Dòng Thời Gian Lịch Sử
Hành trình vĩ đại của một con người phi thường - từ Nguyễn Sinh Cung đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam
Hiển thị 45 trong tổng số 45 sự kiện
19 tháng 5, 1890Nam Đàn, Nghệ An, Việt Nam1890
Nguyễn Sinh Cung (sau đổi tên là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong một gia đình nhà nho yêu nước.

Ngôi nhà tranh đơn sơ ở làng Hoàng Trù, nơi Bác ra đời.
Kinh thành Huế, Việt Nam1901
Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Bác, thi đỗ Phó bảng trong khoa thi Hội năm 1901. Đây là niềm tự hào lớn của gia đình và quê hương, đồng thời tạo điều kiện cho việc giáo dục con cái trong môi trường học thuật tốt hơn.

Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Bác, thi đỗ Phó bảng trong khoa thi Hội. Đây là niềm tự hào lớn của gia đình và quê hương.
Huế, Việt Nam1905
Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế, học tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, rồi sau đó là Trường Quốc Học Huế. Tại đây, Người được tiếp xúc với nhiều tư tưởng tiến bộ, học tiếng Pháp và có cơ hội tiếp cận với văn hóa phương Tây.

Nguyễn Sinh Cung tại Trường Quốc Học Huế.
9 tháng 4, 1908Huế, Việt Nam1908
Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống sưu thuế của nhân dân Thừa Thiên - Huế. Đây là lần đầu tiên Người trực tiếp tham gia một phong trào yêu nước của quần chúng, thể hiện tinh thần đấu tranh chống áp bức từ sớm.

Hình ảnh chống sưu thuế
5 tháng 6, 1911Sài Gòn, Việt Nam1911
Với tên gọi Văn Ba, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời cách mạng của Người.

Bến Nhà Rồng, nơi Người bắt đầu cuộc hành trình vĩ đại.
Marseille và Le Havre, Pháp1911
Sau khi rời Bến Nhà Rồng ngày 5/6/1911 trên tàu Amiral Latouche-Tréville, khoảng một tháng sau tàu cập cảng Marseille rồi tiếp tục đến Le Havre. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành đặt chân tới nước Pháp.

Ảnh con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville)
Trên biển, các cảng châu Phi và châu Mỹ1912
Từ 1911 đến đầu 1912, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm việc trên tàu, theo các tuyến hải trình thương mại vòng qua châu Phi và châu Mỹ trước khi trở lại bờ Đông Hoa Kỳ. Chặng đi này giúp Người quan sát đời sống người lao động và chế độ thuộc địa ở nhiều nơi.

Ảnh con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville)
New York, Hoa Kỳ1912
Trong thời gian ở New York (1912–1913), Nguyễn Tất Thành lao động kiếm sống, đi sâu tìm hiểu đời sống người lao động và vấn đề kỳ thị chủng tộc tại Mỹ; đây là trải nghiệm có ảnh hưởng đến nhận thức chính trị của Người.
Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ1912
Từ năm 1912, Nguyễn Tất Thành đến Boston, làm các công việc lao động dịch vụ (như phụ bếp/nhà bếp) tại khách sạn Omni Parker House; đồng thời học hỏi về phong trào dân chủ và xã hội Mỹ.

Nguyễn Tất Thành tại Hoa Kỳ.
Le Havre (Pháp) → London (Anh)1913
Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về cảng Le Havre (Pháp), sau đó sang Anh để tiếp tục làm việc và tích lũy kinh nghiệm sống.
London, Vương quốc Anh1913
Người chuyển đến Anh, làm phụ bếp tại khách sạn Carlton ở London. Đây là thời gian Người tiếp cận nền văn hóa và phong trào công nhân Anh, học hỏi về tổ chức công đoàn và đấu tranh giai cấp.

Nguyễn Tất Thành tại Anh.
Paris, Pháp1917
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tham gia phong trào công nhân, hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước.

Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp
Versailles, Pháp1919
Với tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị Versailles, nêu 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng cho nhân dân Việt Nam. Sự kiện đánh dấu tiếng nói chính nghĩa của dân tộc vang lên trên trường quốc tế.

Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây (6-1919)
Tours, Pháp1920
Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, ủng hộ Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc Người tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin.

Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920.
Paris, Pháp1921
Tháng 7/1921, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí và nhà hoạt động từ nhiều thuộc địa của Pháp tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa (L’Union Intercoloniale) nhằm đoàn kết lực lượng cách mạng thuộc địa, đấu tranh cho quyền tự do, dân chủ và bình đẳng.
Paris, Pháp1922
Từ 7/1921 đến 6/1923, Nguyễn Ái Quốc ở số 9 ngõ Compoint (quận 17, Paris), viết báo, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp Thuộc địa, mở rộng hoạt động tuyên truyền và tổ chức trong cộng đồng người Việt tại Pháp.
Trong suốt cuộc đời làm báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập 9 tờ báo, trong đó Le Paria là tờ báo đầu tiên - cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa_ Ảnh: special.nhandan.vn
Mátxcơva, Liên Xô1923
Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô theo lời mời của Quốc tế Cộng sản. Người học tập tại Trường Đại học Phương Đông, làm việc tại Quốc tế Nông dân và tham dự nhiều hội nghị quốc tế. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (người đầu tiên bên trái hàng ngồi) chụp ảnh với một số đại biểu tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản của tại Moskva, Nga từ ngày 17-6 đến 8-7-1924.
Mátxcơva, Liên Xô1924
Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, đọc tham luận quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nêu cao tiếng nói của nhân dân thuộc địa. Đây là lần đầu tiên tiếng nói của nhân dân Việt Nam được nêu lên trên diễn đàn quốc tế.

Thẻ đại biểu cấp cho Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản của tại Matxcơva, năm 1924.
Quảng Châu, Trung Quốc1925
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc. Người trực tiếp mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cách mạng cho Việt Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tranh vẽ Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc.
Quảng Châu, Trung Quốc1927
Các bài giảng lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc dành cho học viên lớp huấn luyện tại Quảng Châu được tập hợp, biên soạn và in thành sách “Đường Kách Mệnh” (1927). Tác phẩm trình bày những vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng Việt Nam, vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức cách mạng.

Tác phẩm 'Đường Kách mệnh' (Ảnh tư liệu)
Hồng Kông → Thượng Hải → Vladivostok → Moskva1927
Sau cuộc đàn áp cộng sản của Quốc dân đảng (4–5/1927), Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu để bảo toàn lực lượng. Từ Hồng Kông sang Thượng Hải, tiếp tục đi Vladivostok và theo tuyến đường sắt xuyên Siberia tới Moskva; nhiều tư liệu ghi nhận Người có mặt tại Moskva vào ngày 15/6/1927 (thời điểm qua Vladivostok có sai số nhỏ giữa các nguồn).
Nakhon Phanom, Xiêm1928
Nguyễn Ái Quốc sang Xiêm (nay là Thái Lan), sống cùng Việt kiều, tổ chức hoạt động tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng trong cộng đồng người Việt. Người sống và hoạt động tại Nakhon Phanom, gần biên giới Việt Nam.
3 tháng 2, 1930Hồng Kông, Trung Quốc1930
Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hồng Kông, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) tại Hồng Kông.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930.
Châu Á1930
Người tiếp tục hoạt động tại Ấn Độ, Miến Điện, Xiêm, Singapore…, gây dựng cơ sở liên lạc, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc Đông Nam Á. Đây là giai đoạn mở rộng ảnh hưởng cách mạng ra khu vực.
Hồng Kông, Trung Quốc1931
Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Victoria Prison (Hồng Kông). Nhờ sự giúp đỡ của luật sư Loseby và phong trào cách mạng quốc tế, Người được trả tự do năm 1933.

Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc), năm 1931.
Mátxcơva, Liên Xô1933
Sau khi được trả tự do, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô lần thứ hai, tiếp tục học tập, nghiên cứu và tham gia công tác Quốc tế Cộng sản. Người tập trung nghiên cứu lý luận cách mạng và chuẩn bị cho việc trở về lãnh đạo phong trào trong nước.
Đông Dương1936
Phong trào Dân chủ Đông Dương (1936-1939) phát triển mạnh mẽ trong nước, tạo điều kiện cho việc tập hợp lực lượng cách mạng và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập.
Côn Minh, Trung Quốc1938
Cuối 1938, từ Moskva trở lại Trung Quốc (Diên An). Nguyễn Ái Quốc (Hồ Quang) tham gia tổ chức huấn luyện quân sự và chính trị cho cán bộ Việt Nam tại Côn Minh, Quảng Tây.
Trung Quốc1939
Từ tháng 2-7/1939, Nguyễn Ái Quốc viết loạt bài tuyên truyền tại Trung Quốc, chuẩn bị tư tưởng và lý luận cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
28 tháng 1, 1941Pác Bó, Cao Bằng, Việt Nam1941
Nguyễn Ái Quốc vượt mốc 108 ở Pác Bó (Cao Bằng), chính thức trở về lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu việc Người trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Bác Hồ thăm Pác Bó.
13 tháng 8, 1942Việt Nam / Trung Quốc1942
Buổi tối 13/8/1942, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc rời Việt Nam sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng người Việt Nam và lực lượng Đồng minh.

Trụ sở xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), nơi chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ Hồ Chí Minh, tháng 8/1942 (nguồn ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Quảng Tây, Trung Quốc1942
Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tác tập thơ 'Ngục trung nhật ký' (Nhật ký trong tù) bất hủ. Tập thơ gồm 133 bài thơ chữ Hán, thể hiện tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của Người.

Trang bìa tác phẩm “ Ngục trung nhật ký” (Ảnh tư liệu BTLSQG)
2 tháng 9, 1945Hà Nội, Việt Nam1945
Tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu sự ra đời của nhà nước Việt Nam độc lập. Tuyên ngôn được soạn thảo dựa trên Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập.
6 tháng 3, 1946Hà Nội, Việt Nam1946
Ký kết Hiệp định Sơ bộ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện Pháp Jean Sainteny, công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Ảnh tư liệu
Paris,Pháp1946
Ký kết Modus Vivendi giữa Việt Nam và Pháp, tạm thời giải quyết các vấn đề cấp bách và tạo điều kiện cho việc đàm phán chính thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Marius Moutet ký Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp tại Paris ngày 14/9/1946 (Nguồn: Ảnh tư liệu).
19 tháng 12, 1946Vạn Phúc, Hà Đông1946
Hồ Chủ tịch ra 'Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến', hiệu triệu toàn dân đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Bác Hồ ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.
9 tháng 11, 1950Hà Nội, Việt Nam1950
Khi nhận tin anh trai Nguyễn Sinh Khiêm qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện về quê bày tỏ nỗi buồn và xin lỗi vì không thể về chịu tang do bận việc nước; bức điện viết rằng Người 'chịu tội bất đễ' trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng.
21 tháng 7, 1954Genève, Thụy Sĩ1954
Hiệp định Genève được ký kết, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, đình chiến và vùng tập kết dọc vĩ tuyến 17. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo đất nước đi vào giai đoạn mới.

Hiệp định Genève.
5 tháng 4, 1957Hà Nội, Việt Nam1957
Ngày 5/4/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêu đãi Đoàn đại biểu Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan tại Hà Nội, ca ngợi tinh thần anh dũng của nhân dân Ba Lan và cảm ơn sự giúp đỡ trong khôi phục đất nước; buổi tối Người dự tiệc chiêu đãi của Thủ tướng I. Xirăngkiêvích.
14 tháng 2, 1958Cancútta (Ấn Độ) và Rănggun (Miến Điện)1958
Sau chuyến thăm hữu nghị Ấn Độ, sáng 14/2/1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Cancútta trên xe mui trần ra sân bay và lúc 8 giờ 15 phút lên đường đi Rănggun (Miến Điện). Người tới nơi lúc 13 giờ, được Tổng thống U Nu, Thủ tướng cùng hàng nghìn người đón tiếp; chiều tham dự tiệc và thăm chùa vàng Shwedagon.
2 tháng 3, 1958Thái Nguyên, Việt Nam1958
Ngày 2/3/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới tỉnh Thái Nguyên, thăm trạm bơm Lưu Xá và yêu cầu chú trọng xây dựng đường dẫn nước; Người gặp gỡ nhân dân và kêu gọi đoàn kết, phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng quê hương.
Hà Nội, Việt Nam1960
Đại hội III của Đảng xác định đường lối 'miền Bắc XHCN, đấu tranh thống nhất', định hướng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Hà Nội, Việt Nam1965
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu soạn bản Di chúc lịch sử, đúc kết những tư tưởng, tình cảm và dặn dò tâm huyết cho toàn Đảng, toàn dân. Di chúc được hoàn thiện và công bố sau khi Người qua đời.

Di chúc của Bác Hồ.
24 tháng 5, 1966Thái Hồ, Trung Quốc1966
Ngày 24/5/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm danh thắng Thái Hồ (Trung Quốc) cùng lãnh đạo tỉnh Giang Tô và Hồ Nam. Tại đây Người sáng tác bài thơ chữ Hán 'Vịnh Thái Hồ' ca ngợi cảnh đẹp của hồ với bốn câu: 'Tây Hồ khôn sánh Thái Hồ đẹp / Thái Hồ rộng vượt Tây Hồ xa / Thuyền cá đi về trong nắng sớm / Ruộng đầy dâu lúa, núi đầy hoa'.
2 tháng 9, 1969Hà Nội, Việt Nam1969
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần tại Hà Nội, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân tộc Việt Nam và bạn bè quốc tế. Người để lại di sản tư tưởng vĩ đại và tấm gương đạo đức sáng ngời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"— Chủ tịch Hồ Chí Minh —